Quýt đường có nhiều dưỡng chất phong phú, trong 100 g quýt. So với trái lê hàm lượng protein của quýt gấp 9 lần , hàm lượng canxi gấp 5 lần, hàm lượng photpho gấp 5.5 lần, vitamin B1 gấp 8 lần, vitamin B2 gấp 3 lần, vitamin C cũng gấp 10 lần. Quýt chứa thành phần chống oxy hóa, có thể tăng cao khả năng miễn dich, chống sự phát triển của các loại u bướu. Ngoài ra, quýt đường còn có tác dụng chống lại tia bức xạ của máy tính, trong quýt chứa nhiều vitamin A và beta carotin, có thể bảo vệ da cho những người thường sử dụng máy tính. Hơn nữa, các thành phần dinh dưỡng trong quýt còn giúp chống lại sự phá vỡ acid uric trong máu. Các loại acid hữu cơ và vitamin trong quýt điều hòa chức năng trao đổi chất trong cơ thể đặc biệt là người già mắc bệnh tim.
Trái quýt có hình cầu dẹp ở hai đầu, đỉnh và đáy trái lõm, có từ 6-10 múi, mỗi múi có từ 0-4 hạt, vỏ có quả màu hồng đặc trưng rất đẹp và không có lớp vỏ trắng xốp. Mặt ngoài vỏ có lớp sừng chứa nhiều túi tinh dầu. Trái dùng để ăn tươi, vắt lấy nước là thức uống rất bổ ích đặc biệt là người bệnh người có sức khoẻ suy nhược, đặc trưng của trái vào dịp Tết nguyên đán trái quýt còn được bày trên mâm ngũ quả. Vỏ được dùng làm thuốc, làm mứt. Trồng nhiều ở các vùng trên Việt Nam.
Để có được vườn quýt đạt năng suất và hiệu quả cần:
Quýt đường là loại cây khó chịu nên đất trồng đòi hỏi không ngập úng, có nước tưới vào mùa khô; là loại đất có tầng canh tác sâu màu mỡ. Mật độ phù hợp 4-5m/cây; hố trồng đào 60x60x60cm cần nhiều phân chuồng hoai hoặc phân đã xử lý
Trồng thẳng cây, thẳng hàng để tiện chăm sóc về sau. Khi trồng xong cần tăng cường 10-15g phân DAP trên mỗi gốc và tưới đủ nước để kích thích rễ cây phát triển.
Phân bón cho quýt đường cần chia làm nhiều đợt bón cho cây. Cần chú ý cân bằng lượng NPK để đám bảo cây phát triển tốt đồng thời hạn chết bệnh ở cây.
Quýt đường có nhiều đối tượng gây bệnh, bà con cần thường xuyên thăm vườn, kiểm tra để có biện pháp xử lý kịp thời. Công tác bấm ngọn, tỉa cành tạo tán cây và vệ sinh vườn là việc làm cần thiết góp phần hạn chế bệnh hại trong vườn cũng như nâng cao năng suất cho cây.
1.Sâu vẻ bùa.
– Phát triển mạnh ở giai đoạn cây ra lá non, sâu rất nhỏ, đục dưới biểu bì lá tạo thành những đường ngoằn nghèo. Sự phá hại của sâu làm lá co rúm, biến dạng, quăn queo và các vết thương do sâu tạo trên lá, chồi tạo điều kiện cho bệnh loét phát triển.
* Phòng trị:
– Chăm sóc cây sinh trưởng tốt, thúc cây ra đọt non tập trung, mau thành thục để hạn chế được sự phá hoại của sâu.
– Dùng các loại thuốc nội hấp như: Cymbush với liều 8 cc/8 lít; Bi 58 0,1%, liều lượng 20 g/8 lít nước. Lannate liều lượng 20 g/8 lít nước vào các đợt cây ra đọt non.
2. Rầy mềm.
– Thường chích hút ở chồi ngọn, làm cho chồi và lá non không phát triển được, co rúm lại, đồng thời tạo điều kiện cho nấm bồ hóng cộng sinh và phát triển. Rầy mềm còn là môi giớùi truyền bệnh Tristeza.
* Bệnh Tristeza có triệu chứng rõ rệt nhất trên cây chanh là loại cây có múi mẫn cảm nhất: cây lùn, trái nhỏ, lá nhỏ, hơi cong giống hình muỗng, gân lá sưng, soi lá đối diện với ánh nắng thì thấy gân trong, bóc vỏ thân cây thì thấy bị rỗ (có những lỗ nhỏ như những cái gai ấn sâu vào thân cây).
* Phòng trị:
Phun thuốc định kỳ vào các đợt ra đọt non như: Supracide 40EC với liều lượng 10 – 15cc/8 lít nước, Polytrin 440EC với liều 8 – 15cc/8 lít nước.
3. Rầy chổng cánh.
– Đây là đối tượng rất nguy hiểm. Rầy chổng cánh thường chích hút nhựa lá non, đọt non và làm lây bệnh vàng lá Greening.
* Phòng trị:
Phun thuốc định kỳ vào các đợt ra đọt non như: Supracide 40EC với liều lượng 10 – 15cc/8 lít nước, Polytrin 440EC với liều 8 – 15cc/8 lít nước.
4.Nhện đỏ.
– Cả ấu trùng và thành trùng đều rất nhỏ màu nâu, vàng lợt hoặc trắng trong tùy loại, thường bu chích hút bên ngoài vỏ trái non (1 – 2 tháng tuổi) làm cho vỏ trái như phủ cám nên thường gọi là trái da cám, làm giảm giá trị của trái thương phẩm.
* Phòng trị:
– Quan sát thường xuyên sự xuất hiện của nhện trên trái, lá. Phun các thuốc đặc trị nhện đỏ như: Bi 58 với liều 20g/8 lít nước, Danitol 10EC, Microthiol special 80WP, Rufast 3EC với nồng độ 1 – 3%. Tưới đẫm nước trên vườn sẽ giảm được mật số nhện, do đó không cần phun thuốc trừ nhện trong mùa mưa (cần chúù ý thoát nước tốt khi tưới đẫm và mưa ngập).
5. Bệnh loét.
– Bệnh do vi khuẩn gây ra, bệnh gây hại trên cả lá, trái, cành cây, vết bệnh lúc đầu nhỏ, sủng nước màu xanh đậm, sau biến thành màu nâu nhạt mọc nhô lên mặt lá hay vỏ trái. Xung quanh vết bệnh có quầng vàng. Trên trái non và trên cành vết bệnh có thể ăn sâu 1 – 3mm và làm trái dễ bị rụng, nếu trái không rụng cũng bị mất giá. Bệnh thường gây hại nặng trong mùa mưa.
* Phòng trị:
– Cắt bỏ, tiêu hủy cành lá, trái bệnh.
– Phun các loại thuốc gốc đồng như: Copper Zine, Kasuran liều lượng 1,5 – 2% ở giai đoạn chuẩn bị đâm tược ra hoa và giai đoạn 2/3 hoa rụng cánh – tiếp tục phun định kỳ 2 tuần/lần.
6. Bệnh thối gốc chảy mủ.
Do nấm gây ra, bệnh làm thối vỏ thân ở gốc kể cả rễ cạn bên trên, có chảy mủ hôi – khi cây bệnh đưa đến ít rễ, rễ ngắn, vỏ rễ thối rất dễ tuột, lá vàng. Nấm cũng có thể tấn công trên trái, nhất là trái ở gần mặt đất.
* Phòng trị:
– Chọn gốc ghép kháng bệnh như chanh Volkameriana hoặc cam ba lá.
– Đất trồng phải ráo, dễ thoát nước; không tủ cỏ rác, không bồi bùn non sát gốc cây.
– Tránh gây thương tích vùng gốc và rễ cây.
– Tưới nấm Trico ĐHCT để phòng ngừa.
– Theo dõi phát hiện sớm, cạo sạch vùng bệnh (cạo đến tận phần thân gỗ), bôi thuốc tím 1% hay Aliette 80BHN, Copper B, Vaseli n có trộn sulphat đồng … rải vôi và thu gom các trái bệnh.
7. Bệnh vàng lá gân xanh (Greening).
– Là bệnh gây hại nghiêm trọng nhất. Cây bị chết có lá vàng lốm đốm nhưng gân xanh, lồi, trái nhỏ, méo mó. Khi chẻ dọc trái ta thấy trái bị lệch tâm, hạt bị thui.
* Phòng trị:
– Loại bỏ cây nhiễm bệnh, cây ký chủ rầy chổng cánh như nguyệt quới, dây tơ hồng.
– Trồng cây sạch bệnh
– Cách ly nguồn bệnh bằng cách trồng cây chắn gió cho vườn cây cam quít.
– Phun thuốc định kỳ vào các đợt cây ra lá non, nhất là vào đầu mùa mưa để trừ rầy như Applaud, Applaud Mipc 25%, Bassa, Trebon …
8. Bệnh ghẻ lồi.
– Do nấm gây hại trên cả lá và trái. Bệnh thường tấn công vào giai đoạn cây ra đọt non, trái non. Lá, trái bị bệnh sần sùi nên bán mất giá.
* Phòng trị:
Phun các loại thuốc trừ nấm như Bonanza, Tilt, Copper B vào giai đoạn cây ra lá non, trái non.
9. Xiết nước xử lý ra hoa
Dùng biện pháp xiết nước để kích thích ra hoa cây có múi. Cách làm như sau:
– Sau khi thu hoạch tiến hành cắt tỉa cành bị sâu bệnh, cành vô hiệu (không có khả năng cho trái) và bón phân bồi dưỡng để cây phục hồi sau mùa cho trái.
– Rút khô nước trong mương vườn và ngưng nước để tạo “sốc” cho cây.
– Thời gian xiết nước kéo dài khoảng 3 tuần đến khi thấy lá hơi héo thì cho nước vào mương cách mặt đất 20 – 30 cm trong 12 giờ, sau đó rút bớt nước ra còn cách mặt liếp 50 – 60 cm để không làm rễ cây bị thiệt hại gây mất sức cho cây.
– Tưới nước, bón phân đầy đủ thúc cây sớm ra đọt và nụ hoa. Nếu dùng thêm KNO3 0,5 – 1%, thời gian xiết nước sẽ rút ngắn hơn.
* Lưu ý: Chỉ nên xiết nước đối với vườn cây trên 3 năm tuổi và thời gian xiết nước không quá 20 ngày để kéo dài tuổi thọ và thời kỳ kinh doanh của cây có múi.
Kính chúc bà con có những vụ mùa bội thu!